Chú thích Lịch_sử_Phật_giáo_Việt_Nam

  1. 1 2 3 4 5 6 Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, Nguyễn Lang, Nhà xuất bản văn học, 2014
  2. 1 2 3 4 5 Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, Chương 1, Nguyễn Lang, Nhà xuất bản văn học, 2014
  3. Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, Chương 3, Nguyễn Lang, Nhà xuất bản văn học, 2014
  4. Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, Chương 7, Nguyễn Lang, Nhà xuất bản văn học, 2014, trích "Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đem quân chinh phạt Chiêm Thành, trong số tù nhân bắt được có một thiền sư Trung Hoa tên là Thảo Ðường. Khi về tới kinh đô, vua chia những tù nhân bắt được cho các quan để làm người phục dịch. Tình cờ thiền sư Thảo Ðường được chia cho một người tăng lục. Một hôm, trong lúc tăng lục đi vắng, tên nô bộc Thảo Ðường lật xem thử những bản ngữ lục Thiền học chép tay để trên bàn của chủ. Thấy bản này chép có nhiều chỗ sai quá, ông không chịu được bèn cầm bút sửa chữa. Khi vị tăng lục về khám phá ra câu chuyện ấy rất ngạc nhiên bèn đem tự sự tâu lên vua. Vua cho vời tên nô bộc kỳ lạ ấy lên hỏi, thì biết đó là thiền sư Thảo Ðường ở Trung Hoa, nhân đi qua Chiêm Thành truyền giáo mà bị bắt. Khâm phục về sức học và đạo đức của Thảo Ðường, vua liền phong ông làm quốc sư. Thiền học của Thảo Ðường có những giác sắc mới lạ, do đó một thiền phái nữa được thành lập, lấy tên là thiền phái Thảo Ðường. Thiền sư Thảo Ðường trụ trì tại chùa Khai Quốc ở Thăng Long."
  5. Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, Chương 8, Nguyễn Lang, Nhà xuất bản văn học, 2014, trích "Năm 1010, lúc vừa lên ngôi, Lý Thái Tổ đã xây tám ngôi chùa ở quê mình. Tại Thăng Long vua cho dựng chùa Hưng Thiên Ngự, và gần điện Thái Hòa là chùa Vạn Tuế. Tiếp đó vua lập chùa Thiên Quang, Thiên Ðức, Thiên Vương, Thắng Nghiêm, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ. Khắp nước chừng 300 ngôi chùa được tạo dựng, những chùa đã hư nát thì sửa chữa lại. Năm 1036, vua Lý Thái Tông làm lễ khánh thành tượng Phật Ðại Nguyện vừa đúc xong. Năm 1040, vua lại khánh thành một nghìn pho tượng Phật bằng gỗ, một nghìn bức tranh Phật và một vạn cờ phướn. Năm 1041, đúc tượng Phật Di Lặc bằng đồng nặng 7.560 cân đặt tại viện Thiên Phúc. Năm 1049, vua dựng chùa Diên Hựu, tức chùa Một Cột. Năm 1056, vua Lý Thánh Tông xây chùa Sùng Khánh Báo Thiên, phát 12.000 cân đồng để đúc chuông và tự tay thảo bài minh khắc trên chuông. Năm 1057, trước chùa này, một ngọn tháp tên Ðại Thắng Tư Thiên được xây lên, 12 tầng, cao 20 trượng. Cũng năm này xây hai chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ cùng đúc hai tượng Phạm Vương và Ðế Thích bằng vàng. Năm 1057, vua sai Quách Mãn tạc tượng Phật A Di Ðà bằng đá ở huyện Tiên Du. Năm 1071, vua viết chữ "Phật" cao một trượng sáu thước khắc vào bia đá để tại chùa núi Tiên Du. Năm 1086 vua Lý Nhân Tông dựng chùa Lâm Sơn và xây tháp đá tại huyện Quế Dương. Năm 1091, vua dựng tháp Linh Tế. Năm 1129, vua Lý Thần Tông khánh thành 84.000 bảo tháp bằng đất. Năm 1134, khánh thành ba tượng tam tôn bằng vàng."
  6. 1 2 Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, Chương 8, Nguyễn Lang, Nhà xuất bản văn học, 2014
  7. Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, Chương 12, Nguyễn Lang, Nhà xuất bản văn học, 2014
  8. Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 2, Chương 18, Nguyễn Lang, Nhà xuất bản văn học, 2014, trích "Năm 1396, vua Thuận Tông xuống chiếu thải bớt tăng sĩ dưới năm mươi tuổi. Không rõ đây là hành động của Thuận Tông nhằm ngăn chặn sự lạm dụng đạo Phật hay là quyết định của Hồ Quý Ly muốn làm giảm tiềm lực của đạo Phật. Trước đó vào năm 1389 có cuộc bạo động do một vị tăng sĩ pháp hiệu là Thiên Nhiên, tên tục là Phạm Sư Ôn cầm đầu chống lại chính quyền lúc bấy giờ đã nằm trọn trong tay Hồ Quý Ly. Hành động của Phạm Sư Ôn xảy ra một năm sau khi mưu kế loại trừ Hồ Quý Ly trong triều bị lộ và rất nhiều vị quan bị giết hại."
  9. Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 2, Chương 18, Nguyễn Lang, Nhà xuất bản văn học, 2014, trích "Năm 1261, vua Nguyên Hốt Tất Liệt sai Mạnh Giáp và Lý Văn Tuấn mang thư sang dụ triều đình Ðại Việt nên theo văn hóa Trung Quốc. Các nho sinh được tuyển vào phụng sự quốc gia thường có khuynh hướng Bắc hóa, muốn thay đổi pháp độ cho giống Trung Quốc. Phép thi cử, phép đặt hàm quan lại, Tết nhất... dưới ảnh hưởng của các Nho thần, dần dần bị ảnh hưởng Trung Quốc. Vua Minh Tông không chịu nghe lời các Nho thần Phạm Sư Mạnh và Lê Quát mà thay đổi pháp độ. Sau khi thấy pháp độ đã bị Bắc hóa ít nhiều, vua Nghệ Tông rất muốn trở truyền thống của các vị vua đầu. Vua nói: "Triều trước dựng nước, tự có pháp độ, không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam Bắc đều làm chủ nước mình, không cần bắt chước theo nhau. Vào khoảng năm Ðại Trị, kẻ học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý nghĩa sâu xa của sự lập pháp, đem phép cũ của tổ tông thay đổi theo tục của phương Bắc cả, như về y phục, nhạc chương không kể hết". Và vua ra lệnh đổi pháp độ lại giống như đời vua Minh Tông."
  10. Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 2, Chương 18, Nguyễn Lang, Nhà xuất bản văn học, 2014, trích "Lương Thế Vinh, một trí thức thời Lê Thánh Tông chỉ vì viết sách Phật mà sau khi chết không được thờ trong Văn Miếu. Ðiều này cho thấy tinh thần kỳ thị tôn giáo trong thời Lê nặng đến dường nào. Các sử gia Ngô Sĩ Liên và Ngô Thì Sĩ cũng mang nặng tinh thần kỳ thị trong khi phê bình các sự kiện lịch sử đời Trần. Phẩm bình về vua Trần Thánh Tông, Ngô Sĩ Liên viết: "Vua là người trung hiếu, nhân thứ, tôn người hiền, trọng kẻ sĩ; cha làm ra trước, con nối về sau, cơ nghiệp của nhà Trần, cơ nghiệp của nhà Trần được bền vững. Song ham mê đạo Tam Muội, nghiên cứu đạo Nhất Thừa, thì không phải là đạo trị thế giỏi của đế vương". Ngô Sĩ Liên lại viết về Trần Nhân Tông: "Hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp phục hưng làm vẻ vang đời trước, thực là vua hiền của nhà Trần. Song vui lòng ở kinh Phật, tuy bảo là đến siêu thoát nhưng không phải là đạo trung dung của thánh nhân"."
  11. 1 2 3 Phật giáo từ thời Trần Nhân Tông đến cận đại, Nguyễn Ðức Sơn, Người cư sĩ
  12. “Đòi Lại Đất bị Nhà thờ Chiếm Đoạt”
  13. Tiểu sử Hòa thượng Thích Thiện Hào (1911 – 1997), Báo Giác ngộ, 23/07/2010
  14. 1 2 Tiến Trình Thống Nhất Phật giáo, Đỗ Trung Hiếu, Thư viện Hoa sen, 23/12/2010
  15. “Vietnam: Religion”. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2010. 
  16. “Lược sử Hội nghị đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam”. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2010. 
  17. Templer, Robert, tr. 279-280.
  18. Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, Chương 3, Nguyễn Lang, Nhà xuất bản văn học, 2014, trích "Sách Cao Tăng Truyện nói rằng ông đến Kiến Nghiệp thủ đô nước Ngô (nay là Nam Kinh) vào năm Xích Ô thứ mười, tức là năm 247."